Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
2 câu thơ cho thấy tầm quan trọng của một tập thể, khi có một con người, mọi thứ trở nên nhỏ bé, lẻ loi, sống cũng mau lụi tàn như ''đốm lửa'' mà thôi!
Con chim cất cao tiếng hót để ca ngợi cuộc sống hạnh phúc và nó đã cống hiến cho cuộc đời cho vũ trụ trời đất bằng chính tiếng hót tràn đầy sức sống ấy. Còn “chiếc lá” với màu xanh tràn đày nhựa sống cũng tạo cho cảnh vật, cho bầu trời được xinh tươi, đẹp đẽ, đem lại bóng râm, sự thanh thản cho mọi người. Như vây, chúng đã góp phần cống hiến cho đời rồi đó, mặc dù sự cống hiến ấy ít ai nghĩ đến. Những sinh vật nhỏ bé kia chúng còn biết đem khả năng của mình để làm đẹp cuộc đời.
Còn mỗi thanh niên chúng ta với sức trẻ, trình độ của mình chúng ta đã cống hiến gì cho xã hội, cho cộng đồng chưa? Mỗi chúng ta trong quá trình tồn tại, phát triển “đã vay” rất nhiều của xã hội vậy thì phải biết “trả”, nghĩa là ta phải sống sao cho xứng đáng, phải biết cống hiến cho đời. Đó cũng chính là lời nhắn nhủ của thế hệ cách mạng đi trước đối với thế hệ trẻ chúng ta.
Thanh niên phải đi trước trong mọi việc; tình nguyện đã là thương hiệu của Đoàn thanh niên! Xung kích đã và sẽ là một lẽ sống đẹp! Mỗi người chúng ta đã “vay” quá nhiều của xã hội, bởi lẽ ta không sống lẻ loi một mình mà luôn luôn cần sự giúp đỡ của người khác, nên nhiệm vụ “vay” và “trả” là nhiệm vụ của chúng ta. Đó là lẽ công bằng và hợp lý. Ở đây “trả” không có nghĩa là chỉ trả cho người mà ta đã vay mà phải “trả” cho đời, hiểu theo cách khác là ta phải biết cống hiến khả năng, sức lực của mình cho xã hội. Ta phải biết góp phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, phải hiểu việc cống hiến là trách nhiệm của mỗi con người sống trong xã hội “mình vì mọi người”. Nếu như ai cũng đều hiểu rằng “sống là cho, đâu chỉ nhận cho riêng mình”!
Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
Lẽ sống cao đẹp ấy đã trở thành lí tưởng trong bài ca cuộc đời của biết bao thế hệ những con người Việt Nam anh hùng. Và khi bước vào ngưỡng cửa của thi ca thì “Sống là cho và chết cũng là cho” cũng chính là niềm khao khát cháy bỏng trong tâm hồn mỗi thi nhân.Trong số đó, ta không khi nào quên nhắc đến tiếng hát nhẹ nhàng ,sâu lắng ,tha thiết của khát vọng với cuộc đời, với đất nước trong thi phẩm "Mùa xuân nho nhỏ" được thơ Thanh Hải viết tháng mười 11 năm 1980.Và ta cũng bắt gặp ước nguyện tha thiết chân thành được hoá thân, hoà nhập vào những cảnh vật ở bên lăng Bác, ước nguyện sống đẹp, trung thành với lí tưởng của Bác, của dân tộc trong khổ cuối bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương.
Bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" được Thanh Hải sáng tác trước khi nhà thơ qua đời một tháng .Trong tâm lí nặng nề, sức khoẻ và bệnh tật mà hồn thơ Thanh Hải vẫn cất cánh bay cao để rồi mang đến cho cuộc sống một tình yêu, một nỗi niềm thiết tha với quê hương đất nước và cùng theo đó là ước nguyện chân thành được cống hiến trọn vẹn cuộc đời mình cho Tổ Quốc thân yêu.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Thanh Hải lựa chọn mùa xuân để khởi nguồn cảm hứng. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng. Với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng chân thành và tha thiết :
"Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến"
Nhịp thơ dồn dập và điệp từ "ta làm" diễn tả rõ nét khát vọng cống hiến của nhà thơ. Đó là khát vọng sống hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, cống hiến phần tốt đẹp, dù nhỏ bé, của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên giầu sức gợi tả, gây xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Ước nguyện được làm một tiếng chim, một cành hoa để góp vào vườn hoa muôn hương muôn sắc, rộn rã tiếng chim, để đem lại hương sắc, tô điểm cho mùa xuân thêm tươi đẹp. Nhà thơ nguyện cầu được làm một “nốt trầm xao xuyến” không ồn ào, không cao điệu mà chỉ âm thầm, lặng lẽ để “nhập”vào khúc ca, tiếng hát của nhân dân vui mừng đón xuân về. Được tô điểm cho mùa xuân, được góp phần tạo dựng mùa xuân là tác giả đã nguyện hi sinh, nguyện cống hiến cho sự phồn vinh của đất nước. Một ước mơ nho nhỏ, chân tình, không cao siêu vĩ đại mà gần gũi quá, khiêm tốn và đáng yêu quá ! Hình ảnh nhuần nhị, tự nhiên, chân thành, giọng thơ nhè nhẹ, êm ái , ngọt ngào của những thanh bằng liên tiếp kết hợp với cách cấu tứ lặp lại như vậy đã mang một ý nghĩa mới nhấn mạnh thêm mong ước được sống có ích cho đời, cống hiến cho đất nước như một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định, vừa như một tiếng lòng, như một lời tâm sự nhỏ nhẹ, chân tình.
Ước nguyện đó đã được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp, không chỉ cho riêng nhà thơ mà cho tất cả mọi người, cho thời đại của chúng ta. Đó là lẽ sống cống hiến cho đời lặng lẽ, khiêm tốn, không kể gì đến tuổi tác:
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc."
Thái độ ‘lặng lẽ dâng cho đời” nói lên ý nguyện thật khiêm nhường nhưng hết sức bền bỉ và vô cùng đáng quý vì đó là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Thật cảm động làm sao trước ao ước của nhà thơ dẫu đã qua tuổi xuân của cuộc đời, vẫn được làm một mùa xuân nhỏ trong cái mùa xuân lớn lao ấy. Điệp ngữ “dù là” ở đây như một lời tự khẳng định để nhủ với lương tâm sẽ phải kiên trì, thử thách với thời gian tuổi già, bệnh tật để mãi mãi làm một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê hương đất nước. Giọng thơ vẫn nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn. Chính vì vậy, hình ảnh “mùa xuân nho nhỏ” như ánh lên, toả sức xuân tâm hồn trong toàn bài thơ.
Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của cuộc đời. "Dù là tuổi hai mươi" khi mới tham gia kháng chiến cho đến khi tóc bạc là thời điểm hiện thời vẫn lặng lẽ dâng hiến cho đời và những câu thơ này là một trong những câu thơ cuối cùng. "Một mùa xuân nho nhỏ" cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.
1.Khổ cuối bài thơ nói lên suy nghĩ của tác giả về tiểu đội xe không kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận tải quân sự mang tầm vóc những anh hùng lẫm liệt vô danh. ''Không” mà lại “có", có “một trái tim" của người lính. Trái tim rực lửa, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc: Không có kính, rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chi cần trong xe có một trái tim. Các điệp ngữ “không có", các từ ngữ tương ứng: “vẫn ... chỉ cần có...” đã làm cho giọng thơ, ý thơ trở nên mạnh mẽ, hào hùng. Quyết tâm chiến đấu và chí khí anh hùng của người lính không có bom đạn nào của quân thù có thể làm lay chuyển được. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là một hình ảnh hoán dụ, tuy không mới mẻ nhưng đầy ý vị. Đoạn thơ trên đây thể hiện rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm của những người chiến sĩ lái xe trên con đường mòn Hồ Chí Minh thời đánh Mỹ. Tình đồng đội, tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính tỏa sáng vần thơ. Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ... đều mang chất lính, thể hiện một hồn thơ trẻ trung phơi phới, tài hoa, anh hùng. Đoạn thơ trên đây là một tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
1+2)
Hình ảnh cả khổ thơ đều là sự thiếu thốn, nhưng thiếu thốn lại càng thêm thiếu thốn hơn khi mà:
+ Không có kính
+ Không có mui xe
+ Không có đèn xe
+ Thùng xe bị xước
– Biện pháp nghệ thuật
+ Điệp ngữ: không có
+ Liệt kê: kính, đèn, mui, thùng
=> thể hiện sự tàn phá của chiến tranh và tổn thất nặng nề mà chúng ta phải chịu
- Tinh thần bất khuất, ý chí mạnh mẽ của những người lính lái xe
+ Vẫn lạc quan và đầy tự tin
+ Vượt qua mọi khó khăn, giữ vững tay lái cho bánh xe lăn đều
– Hình ảnh trái tim ở cuối bài thơ
+ Là một hình ảnh ẩn dụ đầy sáng tạo
+ Lòng yêu Tổ quốc, tinh thần tự tôn dân tộc
+ Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
+ Chính tình yêu, sự quả cảm của các anh là yếu tố quan trọng làm nên thành công cho kháng chiến
* Em cũng có thể liên hệ mở rộng
- Hình ảnh những người lính trong thơ của Chính Hữu: họ là những người lính xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc họ từ giã quê hương bước vào mặt trận
*Khái quát lại nghệ thuật trong khổ cuối Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị
- Hình ảnh tả thực, chọn lọc
- Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, ẩn dụ
Helppppp gấp với ạ :"> Thảo PhươngTrần Thọ ĐạtHương San ...... :<<
*Giống nhau: Đều là phép điệp ngữ, nhấn mạnh suy nghĩ, tình cảm của người viết
-Điệp ngữ ''ta làm'' được Thanh Hải lặp đi lặp lại tạo sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng của bài thơ. ''Ta làm'' vừa là số ít, vừa là số nhiều, vừa là riêng nhưng cũng là chung, nói lên tâm niệm thiết tha của nhà thơ như một khát vọng dâng hiến cuộc đời mình cho cuộc đời chung. Sự chuyển từ cái “tôi” cá nhân nhỏ bé hoà vào cái “ta” chung của mọi người rất tự nhiên, hợp lí, ước nguyện của mỗi cá nhân hòa vào suy nghĩ của muôn người.
-''Muốn làm'' thể hiện mong ước thiết tha và chân thành.Đặt trong hoàn cảnh của nhà thơ,chính những cảm xúc xót thương, nghẹn ngào đã thôi thúc nhà thơ muốn hóa thân vào những hình ảnh quen thuộc bên lăng Bác.Chỉ là '' muốn làm'' chứ không cụ thể là '' tôi làm'' hay ''ta làm'';tự biến đau thương thành hành động Viễn Phương không ngừng nói lên ước nguyện của riêng mình cũng như của cả dân tộc.
-Đây không phải hình thức liên kết câu trong văn bản. Vì nó chỉ có tác dụng nhấn mạnh ước nguyện của hai nhà thơ.
-''Sống đẹp'' là sống có trách nhiệm, có lí tưởng, khát vọng; là biết cống hiến vì sự nghiệp chung của đất nước
1. Phương thức biểu đạt: biểu cảm.
2. Đây là lời của mẹ nói với con.
3. Câu hỏi tu từ
4. Biết sống vì người khác.