Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Có thể tham khảo đoạn thơ sưu tầm sau:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò Cổng Phủ
Con cò Đồng Đăng…”
Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng…”
Ngủ yên, ngủ yên, cò ơi, chớ sợ
Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cò con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân
(Con cò - Chế Lan Viên)
Thuyết minh về cái cặp:
Trong tất cả các dụng cụ của học sinh, chúng tôi được xem như là anh cả, bởi lẽ chúng tôi có thân hình to lớn nhất. Các bạn có biết chúng tôi là ai không? Chúng tôi là những chiếc cặp xinh xinh giúp các bạn đựng đồ dụng học tập.
Họ hàng chúng tôi có tự bao giờ không rõ lắm, nhưng chắc chắn là từ rất xa xưa, khi con người có nhu cầu đi học. Cha ông chúng tôi trước kia được làm rất đơn giản, thân hình chỉ gồm những mảnh da lớn được may lại, nắp cặp có khóa sắt hoặc có day kéo để đóng mở cặp. Còn ngày nay, với công nghệ tiên tiến và hiện đại, chúng tôi được thiết kế với nhiều kiểu mẫu đẹp hơn, đa dạng hơn. Họ hàng chúng tôi có nhiều loại: Cặp đeo, cặp mang trên vai, cặp xách. Chất liệu để làm ra chúng tôi cũng phong phú hơn xưa. Có loại làm bằng da mềm, có loại làm bằng vải dù, vải gin, vải bố... Riêng tôi, tôi có một thân hình tương đối đẹp, được làm bằng một loại vải da tốt. Bên ngoài có trang trí nhiều hình vẽ và màu sắc nổi bật. Tôi thích nhất là hình chú chó Pikachu ngộ nghĩnh, đáng yêu ở phía trước mặt cặp. Bên trên là nắp cặp với một cái khóa bằng sắt bóng loáng để đóng, mở. Mỗi khi đóng, mở cặp, những âm thanh vang lên lách cách rất vui tai. Bên dưới nắp cặp là một cái túi phụ có dây kéo để các cô, cậu học trò đựng các đồ vật nhỏ cần thiết. Bên hông là một cái túi lưới để đựng những chai nước mà các cô, cậu thường hay mang đến lớp. Tôi không chỉ có quai đeo mà còn có một cái quai nhỏ để xách. Bên trong quai có lót xốp nên sử dụng rất êm. Quan trọng nhất là bên trong cơ thể tôi. Nơi ấy có ba ngăn chính dùng để đựng sách vở. Ngoài ba ngàn chính tôi còn có một ngăn phụ để đựng bút, thước, compa. Mỗi ngăn cặp được ngăn bởi một miếng vải mỏng và bền.
Tuy thân hình chúng tôi cấu tạo chỉ như thế nhưng chúng tôi rất có ích. Nhờ có chúng tôi, các cô, cậu chủ cảm thấy tiện lợi hơn, thoải mái hơn khi đến trường. Chúng tôi che nắng cho sách, vở. Và chúng tôi cũng lấy làm vinh dự với chức năng bảo vệ nguồn tri thức của các cô, cậu học trò. Có chúng tôi, nguồn tri thức ấy sẽ không bị mất đi, không bị mai một đi khi trải qua mọi sự thay đổi của thời tiết.
Để chúng tôi phát huy hết vai trò của mình thì cần phải có sự bảo quản của con người. Cách bảo quản chúng tôi cũng dễ thôi: Khi đi học về, các cô, cậu chủ nhớ treo chúng tôi lên móc, để ở nơi sạch sẽ. Khi chúng tôi bị ướt, các cô, cậu chỉ cần dùng khăn lau khô rồi phơi lên. Chúng tôi cũng cần được giặt sạch rồi phơi khô để vải không bị mục hoặc mốc. Khi có bụi bám vào, cần lau chùi cho chúng tôi sạch sẽ, nhìn vào sẽ trông đẹp hơn, mới hơn. Đặc biệt, để dây kéo hoặc ổ khóa được bền thì cần sử dụng nhẹ nhàng, cẩn thận. Nếu không cẩn thận thì các bộ phận này dễ bị hỏng.
Chúng tôi cũng không tầm thường chút nào đấy chứ! Chúng tôi là những người bạn tốt của các bạn học sinh, luôn đồng hành cùng các bạn, giúp các bạn mang theo mình nhiều tri thức để sau này trở thành những người tài đức vẹn toàn, giúp ích chó đất nước và mở ra cho mình một tương lai mới.
Lão Hạc:
Lão Hạc là nhân vật chính trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc đã để lại trong em nhìu ấn tượng sâu sắc. Trước hết, em yêu mến Lão Hạc là người nông dân nghèo khổ có tấm lòng nhân hậu, tình nghĩa, trung thực và giàu lòng vị tha. Bán cậu Vàng ko phải là một quyết định dễ dàng đối với lão vì đó là kỉ vật duy nhất của đứa con trai lão. Cảm giác ân hận theo đuổi dày vò lão tạo nên đột biến trên gương mặt: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Những suy nghĩ của một ông lão suốt đời sống lương thiện có thể làm người đọc phải chảy nước mắt theo. Con người nhân hậu ấy chưa bao giờ lừa dối ai nên bây giờ đau đớn, ân hận vì nỡ lừa một con chó. Mặt khác, em trân trọng và yêu mến lão Hạc bởi lão là một người giàu lòng tự trọng. Tưởng bán con chó đi là hết chuyện, ko ngờ lão lại lặng lẽ đi đến một quyết định khác: tự tử. Trước khi chết, lão sắp xếp mọi chuyện đâu vào đó. Lão gửi mảnh vườn, ba mươi đồng bạc cho con, ba mươi đồng bạc để lo liệu cho lão khi chết để ko phiền hà đến hàng xóm. Tình cảnh đói khổ, túng quẫn đã đẩy lão Hạc đến cái chết như một hành động tự giải thoát cho mình. Nhưng xét ra, lão còn ba mươi đồng bạc, còn ba sào vườn có thể bán dần để sống tiếp. Nhưng nếu làm thế nghĩa là ăn vào đồng tiền, cái vốn liếng cuối cùng để cho đứa con, lão thà chết chứ nhất định không để mất tài sản danh dụm cho con. Như thế, cái chết này xuất phát từ lòng tự nguyện, lòng thương con âm thầm mà lớn lao, từ lòng tự trọng đáng kính. Qua những điều lão Hạc thu xếp, nhờ cậy ông giáo, chúng ta thấy lão là người hay suy nghĩ và tỉnh táo nhận ra tình cảnh của mình lúc này. Lão Hạc là một người cha yêu thương con sâu sắc, một con người có nhân cách cao quý và giàu lòng tự trọng. Bởi thế, khi đọc xong truyện, em yêu mến, khâm phục trước những phẩm chất tốt đẹp của lão. Đồng thời, em cũng thấy thương xót cho cuộc đời lão, cuộc đời của người nông dân khốn khổ, cơ cực trước cách mạng.
dựa vào lời của những cây diêm, e hãy kể lại hình ảnh cô bé bán diem trong đêm giao thừa
Phần đọc-hiểu:
1. Bài hịch có thể chia làm ba đoạn
a. Đoạn 1: Từ đầu đến “... lưu tiếng tốt”: nêu gương sử sách nhằm khích lệ ý chí lập công danh, hi sinh vì nước ở các tướng sĩ.
b. Đoạn 2: “Huống chi ta cùng các ngươi".. đến .. cùng chẳng kém gì”. Quay về thực tế, lột tả tội ác và sự ngang ngược của giặc đồng thời nêu mối ân tình giữa chủ và tướng.
c. Đoạn 3: Phần còn lại: Phê phán thái độ, hành động sai trái của các tướng sĩ và chỉ ra cho tướng sĩ những thái độ, hành động đừng nên theo, cần làm.
2. Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn đạt bằng những hình ảnh ẩn dụ. Kẻ thù tham lam tàn bạo: đòi ngọc lụa, hạch sách bạc vàng, vét kiệt của kho có hạn, hung hãn như hổ đói. Kẻ thù ngang ngược đi lại nghênh ngang ngoài đường, bắt nạt tể phụ. Những hình tượng ẩn dụ “lưỡi cú diều”, “thân dê chó” để chỉ sứ Nguyên cho thấy nỗi căm giận và lòng khinh bỉ giặc của Hưng Đạo Vương. Đồng thời, đặt những hình tượng đó trong thế tương quan “lưỡi cú diều”, “xỉ mắng triều đình”, “thân dê chó”, “bắt nạt tể phụ”. Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục lớn của mọi người khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Có thể so sánh với thực tế lịch sử, năm 1277 Sài Xuân đi sứ buộc ta lên tận biên giới đón rước. Năm 1281, Sài Xuân lại sang sứ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương minh, quân sĩ Thiên Trường ngăn lại, bị Xuân lấy roi đánh toạc cả đầu. Vua sai Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải ra đón tiếp. Xuân nằm khểnh không dậy. So sánh với thực tế sẽ thấy tác dụng của lời hịch như lửa đổ thêm dầu.
Đoạn văn tố cáo tội ác giặc đã khơi gợi được lòng căm thù giặc, khích lệ tinh thần yêu nước bất khuất, ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của tướng sĩ.
3. Lòng yêu nước căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn thế hiện qua hành động: quên ăn, mất ngủ, đau đớn đến thắt tim, thắt ruột, thể hiện qua thái độ: uất ức, căm tức khi chưa trả thù, sẵn sàng hy sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Bao nhiêu tâm huyết, bút lục của Trần Quốc Tuấn dồn vào đoạn: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Mỗi chữ, mỗi lời như chảy trực tiếp từ trái tim qua ngòi bút lên trang giấy. Câu văn chính luận mà đã khắc họa thật sinh động hình tượng người anh hùng yêu nước, đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù đến bầm gan tím ruột mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mà coi thường xương tan, thịt nát. Khi tự bày tỏ gan ruột, chính Trần Quốc Tuấn đã là một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với tướng sĩ.
4. Nêu mối ân tình giữa mình và tướng sĩ. Trần Quốc Tuấn đã kích động ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi người đối với lẽ vua tôi cũng như đối với tình cốt nhục. Không chỉ vậy, tác giả Trần Quốc Tuấn còn chân tình chỉ bảo và phê phán nghiêm khắc hành động hưởng lạc, thái độ bằng quan trước vận mệnh của đất nước cua tướng sĩ, “làm cho họ tức khí, muốn mau chóng chứng minh tài năng, phẩm chất của mình bằng việc làm thiết thực” (Trần Đình Sử).
Cùng với việc phê phán thái độ, hành động sai, Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những việc đúng nên làm. Đó là nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo “tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”. Những hành động này đều xuất phát từ mục đích quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Khi phê phán hay khẳng định, tác giả đều tập trung khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc đến lòng căm thù giặc, tinh thần trung quân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục... để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Điều này rất cần thiết trong hoàn cảnh nước nhà lâm vào thế nước sôi lửa bỏng, nó thanh toán những thái độ và hành động trù trừ trong hàng ngũ tướng sĩ, động viên những ai còn thờ ơ, do dự hãy đứng hẳn sang phía lực lượng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù.
5. Giọng văn rất linh hoạt, có khi là lời vị chủ soái nói với tướng sĩ dưới quyền (“Các ngươi ở cùng ta... đi bộ thì ta cho ngựa”, “Nay các ngươi nhìn chủ nhục... thẹn”), có khi là lời người cùng cảnh ngộ "Huống chi ta... gian nan”, “lúc trận mạc... vui cười”, “Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi... bại trận") lúc là lời khuyên răn bày tỏ thiệt hơn (“Như vậy, chẳng những... không muốn vui vẻ phỏng có được không”), khi lại là lời nghiêm khắc cảnh cáo (làm tướng triều đình... muốn vui vẻ phỏng có được không?”)...
Sự thay đối giọng điệu như vậy phù hợp nội dung cảm xúc và thái độ của tác giả, tác động cả về lý trí lẫn tình cảm, khơi dậy trách nhiệm của mọi người đối với chủ tướng cùng như với bản thản họ.
6. Một số đặc sắc nghệ thuật tạo nên sức thuyết phục người đọc bằng cảm nhận thức và tình cảm ở bài “Hịch tướng sĩ”.
Gợi ý:
- Giọng văn khi bi thiết nghẹn ngào, lúc sục sôi hùng hồn, khi mỉa mai chế giễu, khi nghiêm khắc như xỉ mắng, lại có lúc ra lệnh dứt khoát.
- Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén
- Sử dụng kiểu câu nguyên nhân - kết quả
- Biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ ngữ, điệp ý tăng tiến, phóng đại.
- Sử dụng những hình tượng nghệ thuật gợi cảm, dễ hiểu
7. Lược đồ kết cấu bài hịch.
- Khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù
- Khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước
- Khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người khi nhận rõ cái sai, thấy rõ điều đúng
LUYỆN TẬP
1. Cảm nhận về lòng yêu nước của tác giả được thể hiện qua bài hịch: Lòng yêu nước được biểu hiện rất phong phú ở nhiều sắc độ:
+ Căm thù giặc sâu sắc
+ Nhục nhã cho thể diện dân tộc
+ Đau đớn day dứt vì chưa tiêu diệt được kẻ thù
+ Nghiêm khắc phê phán thái độ ăn chơi hưởng lạc thờ ơ trước vận mệnh đất nước của các tướng sĩ
+ Khích lệ lòng tự tôn dân tộc, lòng yêu nước thiết tha ở tướng sĩ.
- Khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi lục mất nước
- Khích lệ lòng trung quân ái quốc B lòng ân nghĩa thúy chung của người cùng cảnh ngộ.
- Lòng yêu nước được diễn tả bằng nhừng nét đặc sắc về nghệ thuật (xem câu 6)
- Lòng yêu nước của tác giả kế tục truyền thống yêu nước ngàn năm của dân tộc và được phát huy không chỉ trên câu chữ, lời hịch mà ngay trong hành động thực tế lãnh đạo quân dân nhà Trần chống quân thù. Đây là tình cảm của tác giả mà cũng là nỗi lòng của mọi người dân ta lúc bấy giờ.
2. “Hịch tướng sĩ” vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc:
- Lập luận chặt chẽ sắc bén (kết cấu gồm 3 phần - xem câu 1, lý lẽ sắc bén có xưa - nay, gồm hơn - thiệt, trách nhiệm - quyền lợi,..., dẫn chứng sứ sách chính xác, dễ hiểu).
- Giàu hình tượng, cảm xúc:
Khi tố cáo tội ác của kẻ thù, Trần Quốc Tuấn viết là lũ “cú diều”, là loài “dê chó”, cao hơn nữa chúng chỉ là những con “hổ đói” đang tìm cách săn mồi. Qua những hình ảnh ẩn dụ bọn sứ giặc không còn đại diện cho một quốc gia, không còn là con người. Chúng chỉ còn là lũ ác thú gian manh, là bọn giặc thù.
Khi bày tỏ tấm lòng mình, Trần Quốc Tuấn đã khắc họa được sống động hình tượng một vị chủ tướng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Qua những hình ảnh thậm xưng, lối nói điệp ý và tăng tiến, người đọc hình dung vị chủ tướng đó đau xót đến quặn lòng trước cảnh tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột, mong rửa nhục đến mất ngủ quên ăn, vì nghĩa lớn mả coi thường thịt nát, xương tan.
Cảm xúc trong bài hịch rất đa dạng. Khi thống thiết, khi sục sôi, khi nghiêm khắc, lúc lại ân tình...